Tên gọi: Cây Ngọc Lan, cây hoa ngọc lan
Tên khoa học là: Michelia, họ Ngọc lan – Magnoliaceae.
Chi Ngọc lan bao gồm 50 loài với dạng sống từ cây bụi đến cây gỗ lớn, thường xanh, phân bố ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới Nam và Đông Nam châu Á, bao gồm cả Nam Trung Quốc.Ở Việt Nam, có khoảng 20 loài thuộc chi Ngọc lan, trong số đó có khoảng 5 loài được trồng phổ biến khắp nước vì hoa thơm.Có 2 loài thường được trồng nhiều ở đền thờ, chùa chiền, lăng tẩm, cung điện là Ngọc Lan trắng và Ngọc Lan vàng. Trong số đó, Ngọc Lan trắng được trồng phổ biến hơn. Ngọc Lan được xem là loài cây xanh thích hợp vì cho cây bóng mát tốt, lại cho hoa thơm lan tỏa làm cho cảnh quan thêm phần trang nghiêm.
Thường nó được chọn trồng ở phía tiền đình của cảnh phật. Ngọc Lan trắng cũng được trồng nhiều ở các khuôn viên công sở. Ngoài ra, Ngọc Lan cũng đã được trồng ở một số công viên, vườn cảnh.Ngọc Lan trắng, còn được gọi là Mộc lan trắng, Sứ trắng, Bạch lan hoa, tên tiếng Anh là White Champaca, tên khoa học là Michelia alba. Cây thường xanh, cao 10 – 15 m, nhánh non có lông. Lá bầu dục thon, to khoảng 15-25 x 4-9 cm, xanh tươi, sáng màu, hơi ngã vàng. Hoa rất thơm, gồm 8-12 cánh hoa trắng thon nhọn, hơi cong, nhiều nhị vàng ngắn.
Ngọc Lan vàng, còn được gọi là Ngọc lan ngà, Mộc lan vàng, Sứ vàng, tên tiếng Anh là Champaca, tên khoa học là Michelia champaca. Cây thường xanh, to cao hơn Ngọc lan trắng, có thể cao đến 35 m. Lá có phiến hình xoan hay xoan thuôn, to 10-20 x 4-9 cm, chót nhọn hay có mũi, có lông thưa ở cả 2 mặt. Hoa cũng rất thơm, màu vàng ngà đến vàng cam cam, cánh thẳng.
Tinh dầu Ngọc Lan cũng được dùng trong một loại nước hoa nổi tiếng có tên là nước hoa Joy, do vậy đôi khi người ta còn gọi tên cho cây là Joy perfume tree. Ở nhiều nước Đông Nam Á, hoa của cả 2 loài Ngọc lan trắng và Ngọc Lan vàng đều được dùng cho một số mục đích khác nhau. Có nơi dùng thả vào tô nước để trưng bày trang hoàng cho phòng cưới, nhiều nước dùng lấy hương sản xuất nước hoa và kem chải tóc.
Hoa Ngọc lan cũng thường được dùng thờ cúng trong những ngày lễ, tết, rằm, mồng một hàng tháng. Vào những ngày 14 và 30 âm lịch hàng tháng, chúng ta dễ dàng bắt gặp một vài người nách một cái rỗ nhỏ đựng những gói lá chuối xếp thành hình chiếc bánh tày hay bánh ú chứa những hoa Ngọc Lan đi bán dạo ở một số đường phố. Nhiều gia đình đón mua để trưng bày trên đĩa quả phẩm thờ cúng ở bàn Phật, bàn thờ Gia Tiên hay trang Ông, trang Bà.
Trong nền y học truyền thống châu Á, nước ép hay nước sắc của hoa Ngọc Lan được dùng chữa trị rối loạn tiêu hóa, nôn mửa, sốt. Hoa ngâm trong dầu dùng ngoài da trị nhức đầu, đau mắt, viêm mũi, xoang, thấp, gút, chóng mặt, viêm nhiễm và sốt. Lá dùng chữa trị các vết sưng tấy. Rễ cây Ngọc Lan trắng có tác dụng thông kinh, vỏ rễ dùng hạ nhiệt, hoa trấn kinh… Ở Ấn Độ, hoa của Ngọc lan vàng được dùng điều trị ung thư vùng bụng.
Be the first to review “Cây Ngọc Lan”